NGHI LỄ MA TÁNG CỦA NGƯỜI VIỆT - QUÁCH VÀNG TÂM
11:25 - 23/07/2020
Nghi lễ ma táng của người Việt đã theo từ ngàn đời xưa đến nay, tuy nhiên không phải ai cũng biết thực hiện phong tục này đúng cách. Cùng theo dõi bài viết dưới đây của Quách Vàng Tâm bạn nhé!
GỬI TRO CỐT SAU KHI HỎA TÁNG Ở ĐÂU
NHÀ TANG LỄ 19/8 BỘ CÔNG AN
DỊCH VỤ TANG LỄ - NHÀ TANG LỄ THANH NHÀN
DỊCH VỤ TANG LỄ - NHÀ TANG LỄ BỆNH VIỆN ĐỐNG ĐA
Những nghi lễ sau ma táng của người Việt
Nghi lễ mở cửa mả:
Lễ mở cửa mà là một nghi lễ sau ma táng rất quan trọng. Trong ba ngày sau khi chôn, gia đình tang gia trở ra mộ làm lễ mở cửa mả, thường thì trong nhà làm lấy, người giàu mời thêm thầy cúng đến dùng con gà trắng hay con chó đen, để cúng thổ thần (ngày trước họ giết gà chó ngay tại đấy, lấy máu mà tưới lên quanh ngôi mộ, nay chỉ còn thả cho gà, chó tự chạy như để phóng thích, phóng sinh. Các thầy cúng dùng lươn, cá chép, ốc (tam sên), một cây mía lao cùng nhiều loại giấy tiền vàng bạc để cúng và yểm bùa, cho rằng làm như thế thì trừ được hung thần không cho quậy phá hồn người chết, sau để hồn về nơi thờ cúng trong nhà.
Sau khi làm lễ mở cửa mả xong, các con cái bắt đầu dọn mộ hay xây mộ cho thân nhân (trong 49 ngày đầu, tức còn trong lễ thất tuần) tang gia có thể xây mộ mà không cần xem ngày giờ tốt xấu.
Nghi lễ cúng thất tuần và cúng chung thất: Theo phong tục khi người chết đã chôn cất xong, gia đình phải làm lễ thất tuần (tức làm tuần, trong 7 tuần lễ liền), tính ngày người chết mới tắt thở.
Các con cái chịu tang phải về đầy đủ, mặc lại tang phục và cúng cơm cho người chết, thầy cúng hoặc nhà sư đến tụng niệm (trước đây, có tục người nào lo việc hương hỏa trong gia tộc, hàng ngày phải dâng cơm ngày hai buổi và phải khóc lóc thảm thiết, van xin hồn người chết về dùng cơm).
Cơm cúng cho người chết (mỗi khi cúng cơm) đều là những món chay, nhằm cho người chết được nhẹ nhàng hồn vía, sớm siêu thăng miền cực lạc, có người cho rằng cúng chay là để hồn người chết sớm quy y cửa Phật, nương nhờ cửa Phật mà không về với gia đình (vì gia đình thường ăn mặn, không hợp lẽ tu hành).
Khi cúng đủ 6 tuần, đến tuần thứ 7 gọi là lễ chung thất. Thường lễ chung thất(49 ngày) và lễ tốt khốc 100 ngày, các gia đình tổ chức rất lớn, có mời họ hàng, xóm giềng đến dự.
Trước là cho một số con cái cháu chắt xả tang, vì cho rằng trong 49 ngày qua, hồn người chết đã yên ổn ở các nơi (có ý cho là người chết có 3 hồn, một ở nơi thờ cúng, một ở nơi chôn cất và một ở dưới tuyền đài chờ Diêm vương phán quyết), khi xả tang có thầy cúng hay nhà sư đến làm phép cho người đó.
Sau là gia đình tang gia cảm tạ các khách mời trong thời gian họ đến tống tang, bằng một bửa cơm thịnh soạn.
Nghi lễ Lễ giỗ đầu và xả tang: Tròn một năm của người chết, gọi là ngày giỗ đầu hay lễ tiểu tường. Bấy giờ con cháu chịu tang (chưa xả tang) được bỏ tang phục, gậy mũ v.v… các lễ tục vẫn giống như khi làm lễ chung thất và lễ tốt khốc.
Nghi lễ đại tường và đàm tế: Sau hai năm giỗ tất gọi là đại tường, nếu tính theo năm âm lịch là để tang đã đủ ba năm. Tuy nhiên ngày đại tường này cũng chưa phải đã hết tang chế cho tang gia, mà sau đó còn một lễ khác có tên gọi lễ đàm tế.
Lễ này còn được gọi là lễ trừ phục sau 60 ngày (nhưng không nhất thiết phải đúng 2 tháng sau lễ đại tường, có gia đình chọn được ngày tốt, để tổ chức lễ đàm tế) Trong ngày lễ tất cả những gì còn gợi lại tang ma đều được đốt bỏ, mọi người được xả tang và thôi đau buồn nữa.
Trong những lễ tục tang ma nói trên, những gia đình khá giả trong những ngày lễ tiểu tường, đại tường họ thường đốt vàng mả, nào là nhà, xe, áo mão, rương hòm… có người dâng hình nhân làm người hầu hạ v.v… cho người chết.
Nhiều gia đình, sau khi làm lễ chung thất hay tốt khốc, họ xin dẫn vong linh về chùa để tu cho sớm được siêu thăng tịnh độ, nên những lễ tốt khốc, tiểu tường, đại tường, đàm tế đều tổ chức ở chùa, đốt vàng mả cũng tại đó. Còn đãi ăn thì tùy gia đình tang gia, mời ăn chay hoặc mặn mà chọn địa điểm.
Nghi Lễ cải táng: Thông thường muốn cải táng một mộ huyệt, ít nhất cũng sau ba năm kể từ ngày chôn cất, bởi khi ấy mùi tử khí cũng không còn ảnh hưởng những người đang quanh đó, và cũng hợp với đạo lý trong xã hội, trong đời sống, tập quán của người dân Việt.
Ngày xưa rất ít người chịu cải táng lại các mộ phần của ông bà cha mẹ, vì sợ động long mạch, phần còn lại có những lý do để cải táng :
– Khi cha mẹ mất, nhà nghèo nên không có tiền lo liệu mua những cổ quan tài tốt, nên đợi ba năm cho cải táng lại, kẻo áo quan cũ xấu hư nát có hại đến di hài.
– Hai là nơi chôn cất có mối kiến, sụp lỡ vì nước ngầm.
– Ba là vì các thầy phong thủy xem lại, thấy phần mộ bị sụp đất, hoặc cây cối trồng trên mộ tự nhiên bị khô héo.
– Còn một lý do, theo mê tín dị đoan, trong nhà có kẻ dâm loạn điên khùng, hoặc bị đau ốm liên miên, bị thị phi, kiện tụng thì cho là đất táng bị động không tốt.
– Lý do thứ tư là những người cầu mong có đường công danh phú quý, nhờ thầy địa lý phong thủy tìm nơi cát địa mà cải táng các mộ người thân. Hay có người ganh tỵ, khi thấy nhà nọ làm ăn khấm khá, liền cho cải táng thân nhân về gần nơi có mộ phần ông bà cha mẹ người đó, để cầu được hưởng dư huệ.
Ngày nay việc cải táng còn nhiều nguyên nhân khách quan khác, như chuyển nghĩa trang ra khỏi thành phố, khu đất được quy hoạch trở thành khu dân cư …
Về mặt chủ quan khi cải táng gặp những điều sau đây thì không nên cải táng nữa :
– Khi đào huyệt mộ thấy có con rắn vàng đang sinh sống, cho là điềm cát tường (Long xà khí vật). Hai là khi mở quan tài thấy có dây tơ hồng quấn quít, thì cho rằng đất kết. Ba là hơi đất chỗ quan tài ấm áp, không có nước, khô ráo hoặc có nước đọng như màu sửa là tốt. Khi gặp những điều trên đây phải đắp lại ngay.
Trước khi cải táng, gia đình người chết phải tổ chức tại nơi thờ phụng một lễ cáo đường. Đến khi động đất cải táng, thêm một lễ báo với thổ thần, thổ địa xin cho được cải táng. Khi thực hiện phần việc gom hài cốt, nhặt lấy xương xếp vào tiểu sành, rẩy nước hoa, lúc hoàn tất phải hàn nắp tiểu sành cho thật kín, không cho ánh sáng lọt vào. Sử dụng tiểu sành có ý đưa hài cốt đi gửi ở chùa, hay đem về nhờ thờ tự, còn đưa đi chôn ở huyệt khác, thì dùng quan quách loại nhỏ, gắn hài cốt như hình người và tẩn liệm thật kỹ như lúc họ vừa mới chết vậy.
Áo quan cũ dù còn tốt nhưng không dùng phải bỏ đi. Một số người ở nông thôn thường đem về làm chuồng heo, bò, trâu, ngựa để các con vật nuôi không bị sâu chân. Một số người khác do mê tín, lấy những mảnh áo quan dùng làm bàn cơ bói toán, hoặc ai đau tức thì lấy nó đốt lên, hay để dưới gầm giường cho hơi bốc lên, cho cơn đau tức được thuyên giảm.
Lễ cúng giỗ hằng năm: Khi ông bà cha mẹ chết đi, ngoài con trai trưởng, hay dòng tộc trưởng thờ cúng (tổ tiên), hàng năm cứ đến ngày mất mà làm lễ giỗ, gọi là kỵ nhật.
Theo phong tục, trước ngày giỗ kỵ vào buổi chiều người nhà soạn mâm cúng đơn giản, gọi là bửa tiên thường, hôm giỗ gọi là chính kỵ. Lễ tiên thường là thủ tục gửi lời mời đến người chết hôm sau về nhà nhận lễ cúng kỵ.
Trong ngày chính kỵ, nếu giỗ xa (cụ kỵ ông bà) chỉ mâm xôi, gà luộc, rồi giò chả là đủ; còn giỗ gần (cha mẹ) cũng bằng thứ ấy thêm vài món canh, món xào, món chiên, món kho… Trên bàn thờ có mâm cơm chay, và dù giỗ xa giỗ gần, làm lớn hay nhỏ, nhất nhất phải có chén cơm úp đôi, bên trên để quả trứng gà luộc.
Những gia đình nghèo cũng chỉ cần lưng cơm quả trứng, dâng lên bàn thờ cũng đã chứng tỏ được lòng thành tưởng nhớ đến ngày mất của cha mẹ rồi. Những nhà khá giả lấy ngày kỵ nhật này tổ chức đám tiệc đông đảo, ngoài bà con họ hàng, anh chị em, con cháu, lại mời hàng xóm, thân hữu đến dự. Tuy những đám tiệc như thế cũng không vượt ngoài sự tưởng niệm, báo hiếu người đã mất, nhưng xét về ý niệm ngày giỗ kỵ lại sai đi.
Quách Vàng Tâm - dịch vụ tang lễ trọn gói tốt nhất 2020, món quà vô giá cho đấng sinh thành. Bên cạnh đó là các dịch vụ chăm sóc nơi an nghỉ cho người quá cố, dịch vụ mai táng, tang lễ trọn gói.
Hotline: 0917. 639. 485